Tiểu sử Warren_Buffett

Thời trẻ

Ông Warren Buffett sinh năm 1930 ở Omaha. Năm 1943 Warren kiếm được khoản tiền đầu tiên trong đời do bán xe đạp của mình cộng với mức thù lao 35 USD cho việc giao báo.[20] Khi người cha được bầu vào quốc hội Hoa Kỳ thì ông chuyển đến học tại thủ đô Washington rồi tốt nghiệp trường trung học Woodrow Wilson năm 1947.[21] Trong năm đầu học trường này, ông đã cùng một người bạn mua một máy bắn bóng giá 25 USD đặt trong tiệm hớt tóc để kiếm tiền và trong vòng một tháng họ đã có ba máy như vậy đặt ở vài nơi.

Từ năm 1947 đến 1949 ông học ở trường kinh doanh Wharton thuộc đại học Pennsylvania, năm 1950 chuyển sang đại học Nebraska rồi tốt nghiệp bằng kinh tế tại trường này.[22] Sau đó ông đăng ký học trường kinh doanh Columbia thuộc đại học Columbia sau khi biết hai nhà đầu tư nổi tiếng thời ấy là Benjamin Graham, (tác giả quyển "Nhà đầu tư thông minh") và David Dodd đang dạy tại đây. Năm 1951 ông nhận bằng thạc sĩ kinh tế của đại học Columbia.

Ông hay thổ lộ là:

  • Tôi gồm 15% của Fisher và 85% của Benjamin Graham.[23]
  • Kiến thức cơ bản trong ngành đầu tư là xem cổ phiếu như những món hàng kinh doanh, dùng tính dao động của thị trường tạo lợi thế cho mình, và tìm kiếm biên độ an toàn (tiếng Anh: safety margin). Đó là điều ông Ben Graham đã dạy tôi. Một thế kỉ qua nó vẫn là kim chỉ nam trong ngành đầu tư. [24]

Sự nghiệp

Warren Buffett làm nhân viên kinh doanh mảng đầu tư cho công ty Buffett-Falk & Co. ở Omaha từ 1951 đến 1954, rồi làm chuyên viên phân tích chứng khoán cho công ty Graham-Newman Corp. ở New York từ 1954 đến 1956. Ông làm chủ công ty Buffett Partnership, Ltd. từ 1956 đến 1969, và từ năm 1970 đến nay là chủ tịch kiêm giám đốc hãng Berkshire Hathaway.

Năm 1951 ông được tin Ben Graham đang ở trong ban quản trị hãng bảo hiểm GEICO liền bắt xe lửa đi thủ đô Washington tới trụ sở hãng này gõ cửa mãi cho tới khi được cho vào. Ông đã gặp phó chủ tịch Lorimer Davidson của GEICO và hai người bàn luận về ngành bảo hiểm rất lâu, sau này ông Davidson thành bạn tri âm đồng thời có ảnh hưởng lâu dài với Buffett [25]. Davidson còn kể lại ông chỉ gặp Buffett 15 phút là nhận ra đây là một "siêu nhân". Sau khi Warren tốt nghiệp trường Columbia ông ngỏ ý muốn làm tại trung tâm tài chính Wall Street nhưng cả cha ông lẫn Benjamin Graham đều khuyên ông đừng. Ông cũng đề nghị Graham cho mình làm không lương nhưng không được đồng ý. Rồi ông trở về Omaha vừa làm môi giới chứng khoán vừa dự một khóa thuyết trình ở trường Dale Carnegie. Những gì đã học giúp ông tự tin hơn bắt tay vào dạy lớp "Nguyên lý đầu tư" buối tối tại đại học Nebraska trong môi trường mà đa số học viên có tuổi đời gấp đôi vị giảng viên này. Thời gian này ông có mua một cây xăng Sinclair Texaco nhưng việc kinh doanh đó không mấy thành công.

Năm 1952 ông kết hôn với bà Susan Thompson, năm sau họ có con đầu lòng đặt tên là Susan Alice Buffett. Năm 1954 ông vào làm việc tại công ty của Benjamin Graham với mức lương khởi điểm 12.000 USD một năm. Tại đây Buffett thường làm chung với Walter Schloss, còn Ben Graham tỏ ra cực kì khó tính trong công việc. Ông Ben sau khi cân nhắc sự dao động giữa giá gốc và giá thị trường của cổ phiếu đã quả quyết rằng chúng phải tạo ra "biên độ an toàn" lớn. Cuộc tranh luận này đã tác động sâu sắc tới Buffett nhưng ông vẫn thắc mắc là định chuẩn cho cổ phiếu như vậy có khắt khe quá hay không vì điều đó có thể làm công ty mình thất thu so với những tổ chức sở hữu nhiều loại cổ phiếu chất lượng hơn. Cũng năm 1954 ông có đứa con kế là Howard Graham Buffett. Năm 1956 Benjamin Graham giải thể công ty để nghỉ hưu nên Warren Buffett quay về Omaha khởi nghiệp với số vốn tích được là 140.000 USD.

Năm 1957 ông điều hành ba công ty, mua căn nhà giá 31.500 USD mà ông vẫn ở hiện giờ. Năm 1958 đứa con thứ ba tên Peter Andrew Buffett ra đời, còn ông điều hành năm công ty. Năm 1959 số công ty ông quản lý tăng lên sáu và đến 1960 là bảy gồm có: Buffett Associates, Buffett Fund, Dacee, Emdee, Glenoff, Mo-Buff and Underwood. Ông đề nghị một bác sĩ là đối tác của mình mời thêm 10 bác sĩ khác có khả năng góp mỗi người 10.000 USD vào công ty của ông, kết quả tất cả đều đồng ý. Năm 1961 ông tiết lộ là hãng Sanborn Map có tới 35% tài sản doanh nghiệp mình do năm 1958 giá cổ phiếu bán ra của Sandborn chỉ là 45 USD một đơn vị trong khi giá trị ghi trên danh mục đầu tư lại là 65 USD một đơn vị, nghĩa là người mua định giá cố phiếu Sandborn "âm 20 USD" nên sẽ không chịu trả thêm 70 xu trên một đô la đầu tư vào một công ty chẳng khả quan gì. Vì vậy mà ông đã vào hội đồng quản trị của Sandborn.

Thành triệu phú

Năm 1962, Buffett đã trở thành một triệu phú nhờ các đầu tư của mình, mà trong tháng 1 năm 1962, các mối đầu tư này đã có tổng giá trị 7.178.500 USD, trong đó có hơn 1.025.000 USD thuộc về Buffett. Ông sáp nhập các đầu tư chung này thành một. Buffett đầu tư vào và cuối cùng giành quyền kiểm soát một công ty sản xuất dệt may, Berkshire Hathaway. Ông bắt đầu mua cổ phiếu của Berkshire từ Seabury Stanton, chủ sở hữu của Berkshire, người mà sau này bị ông sa thải. Công ty đối tác của Buffett đã bắt đầu mua cổ phiếu của Berkshire với giá $ 7,60 cho mỗi cổ phiếu. Năm 1965, khi các công ty đối tác của Buffett bắt đầu mua cổ phiếu Berkshire với số lượng lớn, họ đã phải trả 14,86 USD trên mỗi cổ phiếu, trong khi công ty có vốn hoạt động là 19 USD cho mỗi cổ phiếu. Điều này không bao gồm giá trị của tài sản cố định (nhà máy và thiết bị). Buffett nắm quyền kiểm soát của Berkshire Hathaway tại một cuộc họp hội đồng quản trị và được ông lập một giám đốc điều hành mới, Ken Chace, để điều hành công ty. Năm 1966, Buffett đóng công ty hợp tác để nhận dòng tiền mới. Sau đó, ông cho rằng doanh nghiệp dệt may là việc kinh doanh tồi tệ nhất của mình. Sau đó, ông chuyển công ty Berkshire sang kinh doanh các lĩnh vực bảo hiểm, và, vào năm 1985, phần doanh nghiệp cốt lõi của Berkshire Hathaway đã được bán đi. Buffett đã viết trong bức thư: "... trừ khi nó xuất hiện rằng hoàn cảnh đã thay đổi (theo một số điều kiện về vốn thêm vào sẽ cải thiện kết quả) hoặc trừ khi đối tác mới có thể mang lại một số tài sản cho đối tác khác đơn giản hơn vốn, tôi có ý định không cho ai vào đối tác bổ sung để BPL. "

Trong một lá thư thứ hai, Buffett đã công bố đầu tư đầu tiên của mình trong một doanh nghiệp tư nhân - Hochschild, Kohn và Co, một cửa hàng bách Baltimore tư nhân. Năm 1967, Berkshire chi trả cổ tức đầu tiên và duy nhất của nó là 10 cent. Năm 1969, sau năm thành công nhất của ông, Buffett thanh lý hợp tác và chuyển giao tài sản của mình cho các đối tác của mình. Trong số các tài sản trả ra là cổ phiếu của Berkshire Hathaway. Năm 1970, Buffett bắt đầu viết chữ thường niên nổi tiếng bây giờ của mình cho cổ đông. Tuy nhiên, ông đã sống hoàn toàn vào tiền lương của mình $ 50,000 mỗi năm và thu nhập đầu tư bên ngoài của mình. Năm 1979, Berkshire đã bắt đầu kinh doanh năm tại $ 775 trên mỗi cổ phiếu, và kết thúc tại $ 1,310. Giá trị ròng của Buffett đạt $ 620,000,000.

Năm 1973, Berkshire đã bắt đầu để có được cổ phần trong Công ty Washington Post. Buffett đã trở thành bạn thân với Katharine Graham, người kiểm soát các công ty và báo hàng đầu của mình, và gia nhập hội đồng quản trị của nó. Năm 1974, SEC đã mở một cuộc điều tra chính thức vào Buffett và Berkshire mua lại WESCO, do xung đột có thể quan tâm. Không có chi phí được đưa ra. Năm 1977, Berkshire gián tiếp mua Buffalo Evening News cho 32.500.000 $. Buộc chống độc quyền bắt đầu, xúi giục của các đối thủ của nó, là Buffalo Courier-Express. Cả hai giấy tờ bị mất tiền, cho đến khi Courier-Express gấp năm 1982.

Năm 1979, Berkshire đã bắt đầu để có được chứng khoán trong ABC. Các thành phố Capital công bố mua $ 3,5 tỷ ABC vào ngày 18 tháng 3 năm 1985 gây ngạc nhiên cho các ngành công nghiệp truyền thông, như ABC là lớn hơn so với các thành phố vốn tại thời điểm bốn lần. Buffett đã giúp tài trợ thỏa thuận này để đổi lấy 25% cổ phần trong công ty kết hợp. Các công ty mới sáp nhập, được gọi là Capital Cities / ABC (hoặc CapCities / ABC), đã buộc phải bán một số trạm do Ủy ban Truyền thông Liên Bang quy định quyền sở hữu. Hai công ty này cũng sở hữu một số đài phát thanh trong cùng một thị trường.

Năm 1987, Berkshire Hathaway đã mua 12% cổ phần trong Salomon Inc., khiến nó trở thành cổ đông lớn nhất và Buffett một giám đốc. Năm 1990, một vụ bê bối liên quan đến John Gutfreund (cựu Giám đốc điều hành của Salomon Brothers) nổi lên. Một thương nhân lừa đảo, Paul Mozer, đã nộp hồ sơ dự thầu vượt quá những gì được cho phép bởi các quy tắc tài chính. Khi điều này đã mang đến sự chú ý của Gutfreund, ông đã không ngay lập tức đình chỉ các thương nhân rogue. Gutfreund rời công ty vào tháng 8 năm 1991. Buffett trở thành chủ tịch của Salomon cho đến khi cuộc khủng hoảng thông qua.

Năm 1988, Buffett bắt đầu mua cổ phiếu Coca-Cola Company, cuối cùng mua lên đến 7% của các công ty cho $ 1 020 000 000. Nó sẽ bật ra được một trong những khoản đầu tư sinh lợi nhất của Berkshire, và một trong đó nó vẫn còn giữ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Warren_Buffett http://www.berkshirehathaway.com/ http://www.berkshirehathaway.com/letters/1989.html http://money.cnn.com/magazines/fortune/fortune_arc... http://www.equilar.com/CEO_Compensation/BERKSHIRE_... http://www.equilar.com/CEO_Compensation/Berkshire_... http://findarticles.com/p/articles/mi_m0EIN/is_199... http://www.fool.com/investing/small-cap/2005/06/29... http://www.forbes.com/2005/03/10/cx_bill05_homesli... http://www.forbes.com/2009/03/11/worlds-richest-pe... http://www.forbes.com/lists/2006/12/C0R3.html